

Phó Chủ tịch UBND TPHCM Dương Anh Đức khẳng định điều này tại Hội thảo chuyển đổi số trong giáo dục vùng Đông Nam Bộ và TP. Cần Thơ với chủ đề "Khai thác dữ liệu - kiến tạo giá trị", diễn ra ngày 9/11
Hội thảo được tổ chức nhằm thúc đẩy tiến độ triển khai các nhiệm vụ và thực hiện hiệu quả Kế hoạch tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số của ngành GD&ĐT giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030 của các tỉnh vùng Đông Nam Bộ.

Giám đốc Sở GD&ĐT Thành phố Nguyễn Văn Hiếu phát biểu tại Hội thảo
Theo Giám đốc Sở GD&ĐT TPHCM Nguyễn Văn Hiếu, cần có một chiến lược đúng đắn, dẫn dắt sự phát triển của hệ sinh thái công nghệ với các nền tảng số phục vụ hiệu quả cho hoạt động giáo dục.
Trong những năm qua, ngành GD&ĐT các địa phương trong vùng Đông Nam Bộ cũng như TP. Cần Thơ đã cơ bản hình thành được một hệ sinh thái chuyển đổi số. Hệ sinh thái này bao gồm đầy đủ các thành tố như nền tảng quản trị dữ liệu toàn ngành với trục liên thông dữ liệu; các bộ giải pháp chuyển đổi số; các giải pháp khai thác dữ liệu toàn ngành phục vụ cải cách hành chính; các chính sách về đội ngũ.
Riêng tại TPHCM, công tác xây dựng và chuẩn hóa dữ liệu của ngành giáo dục được chú trọng và đã hoàn thiện được trục cơ sở dữ liệu ngành tạo tính liên thông, liên kết cơ sở dữ liệu ngành. Việc khai thác dữ liệu số đã được ứng dụng thực hiện các hoạt động chuyển đổi số của ngành, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý cũng như chất lượng các hoạt động giáo dục; giảm cường độ lao động cho đội ngũ giáo viên. Cùng với xây dựng, khai thác dữ liệu số, việc phát triển học liệu số hướng tới khai thác, chia sẻ dùng chung sẽ giúp giáo viên không chỉ nội bộ một địa phương mà còn có thể chia sẻ với các tỉnh, thành phố trong vùng.
Tại Hội thảo, lãnh đạo Sở GD&ĐT thuộc 6 tỉnh, thành phố khu vực Đông Nam Bộ đã ký kết hợp tác thực hiện chuyển đổi số. Theo đó, 6 đơn vị này sẽ hợp tác triển khai các giải pháp tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số cho ngành giáo dục cũng như các nhà trường trên địa bàn.

Toàn cảnh Hội thảo
Cụ thể, các đơn vị sẽ hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ xây dựng và triển khai giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số. Tất cả nhằm kiến tạo thành công hệ sinh thái phần mềm chuyển đổi số cho ngành giáo dục.
Đồng thời, 6 tỉnh, thành phố sẽ giới thiệu những giải pháp hạ tầng cho nhau; chia sẻ kinh nghiệm thực hiện liên thông học bạ số, chuyển trường tích hợp chứng thư số; chia sẻ các kho tài nguyên số dùng chung như học liệu số và các tài nguyên số khác... Việc này nhằm vận hành và khai thác hiệu quả hạ tầng dịch vụ kỹ thuật, công nghệ, đồng thời bảo an ninh, an toàn thông tin và các chuẩn kết nối, chia sẻ dữ liệu theo quy định.
Thỏa thuận hợp tác có thời hạn hai năm tính từ thời điểm các bên ký kết. Việc ký kết nhằm mục tiêu xây dựng mô hình giáo dục thông minh và phát triển xã hội số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Thách thức đối với vấn đề giải quyết vấn đề
Việc sử dụng công nghệ ngày càng tăng trong công cuộc chuyển đổi số đã khơi lại nỗi ám ảnh về nạn thất nghiệp. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới, những chuyển đổi hiện nay đang ảnh hưởng đến các ngành công nghiệp toàn cầu, đặc biệt là liên quan đến công việc vì khoảng cách giữa các công việc thiết yếu, sáng tạo với công việc giản đơn, mang tính dây truyền; giữa lao động chất lượng cao với lao động mang tính kỹ năng ngày càng nới rộng. Các công việc giản đơn, mang tính dây truyền ngày càng bị thay thế bởi tự động hóa, rô bốt hóa. Điều này tất yếu dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp sẽ cao, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, nơi mà lao động thủ công, lao động giản đơn, lao động tay nghề thấp vẫn đang chiếm tỷ lệ chủ yếu (World economic forum, 2016).
Thực tế, chính phủ các nước đang phải đấu tranh quyết liệt để hạn chế tỷ lệ thất nghiệp cao, nhất là các nước đang phát triển, ví dụ Chính phủ Nam Phi phải gánh chịu một đòn nặng nề khi đất nước đang vật lộn với tỷ lệ thất nghiệp cao 26% theo dữ liệu tài khoản quốc gia (Thống kê Nam Phi, 2018). Các hệ thống đổi mới và cộng đồng tri thức hiện thời đã cung cấp đầy rẫy các hướng dẫn trí tuệ cần thiết cho phát triển và ứng dụng các sáng kiến thông minh, kỹ thuật số (Abdoullaev, Azamat. 2016). Tư duy-hành động điện tử (kỹ năng điện tử và kiến thức điện tử) được xác định là cơ bản trong sự thành công của cái gọi là xã hội thông minh – Smart Society (Manda, Ickson và Backhouse, Judy. 2016: 228-240). Sự sẵn sàng về các yêu cầu ấy (tri thức và kỹ năng điện tử) quyết định việc công dân có khả năng tham gia đầy đủ vào các hoạt động kinh tế - xã hội trong xã hội thông minh hay không (Manda, Ickson và Backhouse, Judy. 2016: 228-240). Mức độ sẵn sàng đáp ứng rất thấp của công dân ở các nước đang phát triển đang là một trở ngại lớn trong việc chuyển đổi sang xã hội thông minh, tất yếu dẫn đến thất nghiệp, tạo ra vấn đề nan giải đối với các chính phủ hiện nay trong thực thi quyền lực quản trị xã hội.
Thách thức đối với việc quản lý doanh nghiệp
Cùng với sự phát triển của khoa học nghệ, các doanh nghiệp cũng nhanh chóng thích ứng, tận dụng cơ hội và nền tảng công nghệ mới, nhiều mô hình, dạng doanh nghiệp mới với các phương thức kinh doanh mới (ứng dụng công nghệ mới, sử dụng phần mềm, thương mại điện tử, v.v…) được hình thành. Các mô hình kinh doanh mới này đang khiến nhiều chính phủ phải vật lộn để tìm giải pháp thích ứng. Khi các loại hình này phát triển hơn nữa, chính phủ cần phải chuẩn bị tốt hơn để có thể tái cấu trúc thể chế quản lý, tránh tình trạng lũng đoạn, chuyển giá, trốn thuế,… hoàn toàn có thể xảy ra và gây thất thoát cho nhà nước – một trong những nguyên nhân của cái gọi là nhà nước thất bại. Các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã ứng dụng linh hoạt thành tựu mới của khoa học công nghệ để tiến hành "chuyển giá" rất tinh vi trong các lĩnh vực từ sản xuất, thương mại, cho đến dịch vụ, du lịch; trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh - đặt ra áp lực mạnh mẽ lên các cơ quan thuế và cơ quan quản lý khác của nhà nước. Ở một phương diện khác, các doanh nghiệp là các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia, với lợi thế về tiềm lực tài chính-nhân lực-R&D (nghiên cứu và phát triển)… đã nhanh chóng ứng dụng, thậm chí lợi dụng chuyển đổi số, tạo ra những bứt phá thần kỳ; bên cạnh đó, cũng tạo ra rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý của các nước sở tại liên quan đến dịch chuyển dòng vốn và chuyển giá. Các nước đang phát triển có nhu cầu rất lớn về vốn và thường kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các tập đoàn này, những thành tựu mà khu vực này đóng góp là không thể phủ nhận, ví như góp phần chuyển giao các công nghệ hiện đại, truyền bá kinh nghiệm quản lý hiện đại và góp phần rèn luyện nên đội ngũ công nhân lao động lành nghề, v.v… cho các nước đang phát triển, tuy nhiên, những thách thức đối với chính phủ các nước cũng rất lớn liên quan đến năng lực, trình độ quản lý.
Thách thức đối với việc nâng cấp cơ sở hạ tầng thông tin
Thường thì do cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin kém, do đó, hầu hết chính phủ ở các nước đang phát triển gặp khó khăn trong nỗ lực thực hiện chuyển đổi số. Ví dụ, sự thâm nhập băng thông rộng ở các nước đang phát triển vẫn còn thấp so với các nước, các nền kinh tế phát triển - nơi được coi là dẫn đầu về băng thông rộng và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin khác. Thâm nhập băng thông rộng là một trong những điều kiện để chuyển đổi sang xã hội thông minh – xã hội được dẫn dắt bởi kết nối kỹ thuật số, công nghệ tiên tiến, kỹ năng, tri thức và sáng tạo. Hạ tầng công nghệ thông tin liên quan đến các nội dung chính như chính phủ điện tử, quản lý xã hội thông minh, quản lý nền kinh tế kỹ thuật số - thương mại điện tử… đang là những thách thức vô cùng lớn đối với các chính phủ trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay.
Thách thức đối với năng lực thích ứng và tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước
Tính thứ bậc và mệnh lệnh hành chính là một chuẩn mực mang tính đặc trưng riêng có của bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Tính thứ bậc không chỉ thể hiện mối quan hệ giữa trung ương – địa phương, cấp trên – cấp dưới, mà còn thể hiện ở cả sự phân định rành mạch, rõ ràng về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy quản lý hành chính và cung cấp dịch vụ công. Tính thứ bậc là chuẩn mực quan trọng để đảm bảo cho bộ máy ấy vận hành một cách thống nhất, thông suốt, hiệu lực và hiệu quả, tuy nhiên, đó cũng chính là một trong những rào cản đối với những yêu cầu, đặc trưng mới của công cuộc chuyển đổi số này – đó là tính đột phá, tốc độ, sáng tạo, điện tử, v.v… Với thực tế ấy, năng lực ứng dụng công nghệ mới và lề lối, tác phong làm việc hiện đại, năng động của đội ngũ lãnh đạo đang được đặt ra như một trở ngại hiện hữu đối với các chính phủ năng động, hiệu quả ngày nay.
Thách thức trong việc bảo đảm an ninh, an toàn và trật tự xã hội
Vấn đề đảm bảo an ninh đang đặt ra thách thức vô cùng lớn đối với chính phủ các nước trong thời đại chuyển đổi số. Trước những biến đổi của công nghệ, các vấn đề về an ninh tư tưởng, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị như "không gian mạng", "chiến tranh mạng", "chủ quyền không gian mạng", "tội phạm công nghệ cao", "truyền bá tư tưởng"…; cho đến an ninh, trật tự xã hội được đặt ra một cách cấp thiết. Những áp lực mới đối với chính phủ liên quan đến giải quyết các vấn đề xã hội mới nảy sinh; tương tác xã hội yếu (quá lệ thuộc vào máy móc, công nghệ) dẫn đến gia tăng bệnh trầm cảm, bất bình đẳng, tội phạm xã hội mới… rất khó kiểm soát. Đây là những vấn đề nan giải, mặt trái của sự phát triển công nghệ số đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước.
 |
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đồng chí lãnh đạo tham quan triển lãm mô hình, sản phẩm ứng dụng triển khai Đề án 06. Ảnh VGP |
Thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay cũng không nằm ngoài những thách thức chung từ quá trình chuyển đổi số. Tuy nhiên, với những đặc trưng đặc thù nhất định về lịch sử, văn hóa, hệ tư tưởng cũng như cách thức tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước riêng biệt nhất định, quản lý nhà nước ở Việt Nam cũng gặp một số thách thức như sau:
Thách thức đối với việc đổi mới tư duy và hành động ứng phó trong quản lý nhà nước
Đây là thách thức mang tính trực diện và tiên quyết trong đổi mới, cải cách tổ chức thực thi quyền lực nhà nước thích ứng với biến đổi của thời đại. Trong bất kỳ sự đổi mới nào, đổi mới về tư duy là quan trọng và sẽ khởi đầu cho các đổi mới liên đới như đổi mới thể chế hay tổ chức bộ máy. Trong bối cảnh hiện nay, đối tượng của thực thi quyền lực nhà nước là doanh nghiệp, người dân và xã hội đã thay đổi nhanh chóng bởi sự ứng dụng chuyển đổi số, từ đó đặt ra những yêu cầu mới về tư duy và cách ứng phó đối với chủ thể quản lý. Cách tư duy cũ "cái gì phức tạp, cái gì không quản lý được thì cấm" không còn phù hợp, tuy nhiên, cũng không có mô hình ứng xử chung nào trên thế giới có thể áp dụng rộng khắp, mỗi quốc gia có quan điểm và cách thức ứng xử riêng (có nước thì cấm, có nước cho phép, nhưng có nước lại khuyến khích).
Trong quản lý xã hội, những cụm từ "xã hội mở", "xã hội thông minh", "công dân toàn cầu"… đã không còn xa lạ, vấn đề là quản lý hành chính/cung cấp dịch vụ công/huy động nguồn lực đối với những đối tượng như thế đòi hỏi phải thay đổi mạnh mẽ, bắt đầu từ tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước. Những quan điểm "mệnh lệnh hành chính bắt buộc", quan điểm "xin cho, nguyên tắc" hay "xử phạt, cấm đoán" cần chuyển mạnh sang cách tư duy và hành động mang tính linh hoạt và mềm dẻo hơn như "đối thoại, đàm phán, hợp tác, kết nối". Tuy nhiên, những bước chuyển như thế lại không dễ dàng trong thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Thách thức đối với việc xây dựng một nền quản trị nhà nước hiện đại
Trong công cuộc đổi mới, mục tiêu cải cách nền quản trị công ở Việt Nam được thể hiện qua rất nhiều Văn kiện, Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng cho đến các Chương trình, Đề án của Chính phủ, mục tiêu có thể rất nhiều nhưng mục tiêu bao quát nhất là hướng đến một nền quản trị hiện đại. Tiêu chí để đánh giá một nền quản trị nhà nước hiện đại có thể được thiết lập từ rất nhiều căn cứ khác nhau, căn bản có thể dựa trên ba phương diện để đánh giá: thứ nhất, có bộ máy hành chính hiện đại (trọng tâm là cơ quan hành chính ứng dụng khoa học, công nghệ thông tin; cơ sở hạ tầng thông tin - tức chính phủ điện tử, chính quyền điện tử); thứ hai, có con người hiện đại (năng lực ứng dụng, thích ứng với khoa học, công nghệ thông tin của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước); thứ ba, có cơ chế, thể chế hiện đại (hệ thống quy định, nền tảng pháp lý, các nguyên tắc vận hành,v.v…). Cả ba phương diện trên đều đang đặt ra những thách thức lớn trong tiến trình cải cách quản trị nhà nước thích ứng với công cuộc chuyển đổi số mạnh mẽ ở Việt Nam hiện nay.
***
Công cuộc chuyển đổi số đã đặt ra những thách thức rất lớn đối với thực thi quyền lực nhà nước nói chung, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh những thách thức mang tính phổ quát (quản lý thất nghiệp; quản lý doanh nghiệp; hạ tầng thông tin) thì nổi lên những thách thức về đổi mới tư duy quản lý và xây dựng nền quản trị công hiện đại đối với Việt Nam hiện nay. Những thách thức ấy đòi hỏi phải có một sự chuẩn bị kỹ lưỡng cả về tâm thế và năng lực của Nhà nước để thích ứng và đổi mới. Để có được một hệ thống các giải pháp xác đáng và hiệu quả, cần thiết phải có những nghiên cứu và quyết sách dựa trên các khảo sát về nhu cầu, thực trạng, đánh giá được những hạn chế yếu kém và nguyên nhân… một cách bài bản và quy mô./.